Một số vấn đế chính tại Hội thảo “Giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực bảo hiểm Phi nhân thọ”
Ngày 2/8/2019, Tòa án Nhân
dân tối cao phối hợp với Cục Quản lý Giám sát Bảo hiểm (Bộ Tài chính) và Hiệp hội
Bảo hiểm Việt Nam đã tổ chức một cuộc hội thảo tại Nha Trang về chuyên đề “Pháp
luật kinh doanh bảo hiểm và giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực bảo hiểm phi
nhân thọ” với sự tham gia của đại diện hầu hết các doanh nghiệp bảo hiểm phi
nhân thọ (DNBH) đang hoạt động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Qua những tham luận tại hội
thảo này cũng như ý kiến trao đổi và các quan điểm được chia sẻ giữa các đại biểu,
tôi cho rằng trong tương lai cần có
thêm nhiều các cuộc hội thảo như thế nữa để một mặt nâng cao hơn nữa chất lượng
công tác xét xử của tòa án các cấp liên quan đến một vấn đề có tính chuyên sâu
như bảo hiểm thương mại phù hợp với các quy định của pháp luật và tập quán quốc
tế, mặt khác cũng giúp cho các doanh nghiệp bảo hiểm hoàn thiện hơn nữa các văn
bản hợp đồng bảo hiểm theo hướng rõ ràng, minh bạch hơn vừa đảm bảo được quyền
và lợi ích chính đáng của mình vừa không xâm phạm đến quyền và lợi ích chính
đáng của khách hàng tham gia bảo hiểm.
Những vấn đề thu hút nhiều quan
tâm và ý kiến chia sẻ của các đại biểu là những vấn đề nảy sinh từ những vụ việc
tranh chấp giữa DNBH và khách hàng tham gia bảo hiểm trong thực tế khi có sự
khác nhau về quan điểm giữa các cơ quan xét xử và DNBH, thậm chí là khác nhau
giữa các cấp xét xử hoặc giữa tòa án ở địa phương này với tòa án ở đại phương khác hoặc giữa tòa án và
trọng tài liên quan đến hợp đồng bảo hiểm như giấy chứng nhận bảo hiểm, các quy
định về loại trừ bảo hiểm, chuyển nhượng quyền lợi có thể bảo hiểm, quyền của tổ
chức giám định tổn thất, nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm của NĐBH…
Với tư cách là một trong các
đại biểu tham dự Hội nghị này, xin phép được nêu lại ở đây những vấn đề nêu
trên và kèm theo đó là một số ý kiến người viết bài này.
1) Giấy chứng nhận bảo hiểm
Một số đại biểu đưa ra các
câu hỏi liên quan đến Giấy chứng nhận bảo hiểm (GCNBH) như GCNBH được coi là Hợp
đồng bảo hiểm (HĐBH) chưa, trên GCNBH có cần phải có cả chữ ký của Người được bảo
hiểm (NĐBH) hay bên mua bảo hiểm hay không…?
a) GCNBH có được coi là HĐBH?
Để trả lời câu hỏi này thì
trước hết cần phải biết theo quy định của luật thì một Hợp đồng bảo hiểm cần phải
có các nội dung gì.
Điều 13, Luật Kinh doanh bảo
hiểm (Luật KDBH) quy định Hợp đồng bảo hiểm phải có ít nhất các nội dung bắt buộc
là Tên và địa chỉ của DNBH, Bên mua bảo hiểm, NĐBH hoặc người thụ hưởng, Đối tượng
bảo hiểm, Số tiền bảo hiểm, Phạm vi bảo hiểm bao gồm các điều kiện và điều khoản
bảo hiểm và điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm, Mức
phí bảo hiểm, Các phương thức trả tiền bồi thường, các quy định giải quyết
tranh chấp, Ngày, tháng, năm giao kết… Mặt
khác Điều 14 Luật KDBH quy định hình thức của HĐBH là phải “được lập thành văn
bản”.
Như vậy, theo cách hiểu luật
của tôi thì nếu một văn bản giấy tờ dù dưới tên gọi là “Giấy chứng nhận bảo hiểm”
hay bất kỳ tên gọi nào khác mà đã thể hiện đầy đủ các nội dung bắt buộc như
trên theo quy định của Điều 13, Luật KDBH, đồng thời đáp ứng các điều kiện khác
của Bộ Luật Dân sự như có bằng chứng là bên mua bảo hiểm đã chấp nhận các nội
dung này như đã ký Giấy yêu cầu bảo hiểm và đã đóng phí bảo hiểm như quy định thì
GCNBH đó đã hội tụ đủ điều kiện như là một “Hợp đồng bảo hiểm”.
Vì các điều khoản và điều kiện
bảo hiểm thường là khá dài nên theo tập quán thì trên các GCNBH, các DNBH chỉ
ghi một số thông tin chính như tên tên bên mua bảo hiểm và/ hoặc người được bảo
hiểm, số tiền bảo hiểm, loại hình bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm… và có thể tóm tắt
phạm vi bảo hiểm. Trong trường hợp đó thì GCNBH chỉ được coi là một trong các
“bằng chứng giao kết HĐBH” như quy định ở đoạn cuối của Điều 14, Luật KDBH.
Trong trường hợp GCNBH chỉ
được coi là “bằng chứng giao kết HĐBH”, tức là chưa thể hiện đầy đủ nội dung của
HĐBH như quy định của Điều 13 Luật KDBH thì phải có thêm các văn bản khác nữa
có đầy đủ các nội dung này kết hợp với GCNBH để cấu thành một văn bản HĐBH hoàn
chỉnh. Ví dụ nếu GCNBH không ghi rõ phạm vi bảo hiểm hoặc chỉ liệt kê tóm tắt
mà không ghi đầy đủ nội dung các điều kiện, điều khoản bảo hiểm cụ thể thì chưa
thể gọi là một HĐBH. Trong trường hợp đó, vì HĐBH là loại hợp đồng mẫu do một
bên là DNBH soạn thảo nên DNBH là bên phải có trách nhiệm hoàn thiện nó bằng
cách đính kèm thêm một văn bản được gọi là Quy tắc bảo hiểm (policy wording)
trong đó đề cập đầy đủ toàn bộ nội dung này để cung cấp cho bên mua bảo hiểm hoặc
NĐBH.
Trong thực tiễn áp dụng ở Việt
Nam cũng như theo tập quán quốc tế về HĐBH, một bộ văn bản HĐBH (policy
document) mà các DNBH thường cấp cho bên mua bảo hiểm là:
-
GCNBH
(policy schedule) trên đó ghi các thông tin chính như tên Người được bảo hiểm
(NĐBH), số tiền bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm, số phí phải đóng và thông tin tóm
tắt về các điều kiện và điều khoản bảo hiểm chính;
-
Quy tắc
bảo hiểm với nội dung đầy đủ về phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm (policy
wording) và/ hoặc
-
Các Điều
khoản bổ sung (Additional Clauses/ Endorsements), nếu có.
DNBH giữ lại Giấy yêu cầu bảo
hiểm của bên mua bảo hiểm làm bằng chứng và có thể chuyển lại cho bên mua bảo
hiểm giữ một bản sao như là một văn bản cấu thành nên một HĐBH.
Chính vì thế nên ở phần đầu
của các quy tắc bảo hiểm thường có nội dung đại ý “HĐBH này được hiểu bao gồm
Giấy yêu cầu bảo hiểm, GCNBH, Quy tắc bảo hiểm và các Điều khoản bổ sung như là
các bộ phận cấu thành và không thể tách rời với nó”.
Theo tôi, để các cơ quan xét
xử của Việt Nam luôn hiểu rằng những chứng từ này luôn phải đi kèm với nhau và
là các bộ phận không thể tách rời của HĐBH thì ngoài Quy tắc bảo hiểm, DNBH
cũng nên ghi rõ điều này trên cả GCNBH.
Đấy là nói trong các trường
hợp tổng quát đối với các loại hình bảo hiểm tự nguyện. Còn trong trường hợp bảo
hiểm là bắt buộc do Bộ Tài chính quy định như Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới,
Bảo hiểm Cháy nổ bắt buộc thì bộ HĐBH có thể đơn giản hơn. Trong trường hợp ấy, Quy tắc bảo hiểm (policy
wording) không phải do các DNBH đưa ra mà là được quy định trong các văn bản
pháp quy của nhà nước nên DNBH có thể không cần phải đính kèm theo các Quy tắc
bảo hiểm này trong bộ hợp đồng bảo hiểm, thay vào đó trong GCNBH chỉ cần ghi ở
mục phạm vi bảo hiểm là “theo Quy tắc bảo hiểm do Bộ Tài chính quy định” có
trích dẫn số văn bản, ngày ban hành văn bản là đủ. Vì đối với các quy định bắt
buộc có tính pháp quy như thế thì mọi tổ chức và cá nhân đều phải có trách nhiệm
biết hoặc lẽ ra phải biết để tuân thủ.
Tuy vậy, để thuận tiện cho
khách hàng thì trong các trường hợp thực hiện các loại hình bảo hiểm bắt buộc, các
DNBH cũng nên cung cấp thêm nội dung các Quy tắc này để thuận tiện hơn cho
khách hàng, nhưng khi có tranh chấp thì tòa án không thể xem việc cung cấp đó là
nghĩa vụ bắt buộc của DNBH khi việc tìm hiểu và thực hiện các văn bản pháp quy
đó là nghĩa vụ đương nhiên của cả bên mua bảo hiểm chứ không chỉ của các DNBH.
b) Bên mua bảo hiểm có cần phải ký tên trên
GCNBH?
Đây cũng là câu hỏi được đặt
ra trong buổi hội thảo xuất phát từ một thực tiễn tranh chấp mà một số đại biểu
ngoài ngành bảo hiểm nêu ra. Trong thực tiễn áp dụng ở Việt Nam cũng như theo tập
quán quốc tế thì trên GCNBH không nhất thiết phải có chữ ký hay đóng dấu của
bên mua bảo hiểm vì hoặc là họ đã ký trên Giấy yêu cầu bảo hiểm rồi và Giấy yêu
cầu bảo hiểm này đã được coi là một bộ phận cấu thành của bộ văn bản HĐBH hoặc
là họ cũng không cần phải có Giấy yêu cầu bảo hiểm mà chỉ cần đóng phí bảo hiểm
như là một sự xác nhận đã đồng ý đối với phạm vi bảo hiểm được cung cấp là đã hội
đủ điều kiện để một hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết trong thực tế như quy định
của Bộ Luật Dân sự.
Tập quán này không chỉ áp dụng
trong lĩnh vực bảo hiểm mà còn thường áp dụng trong các ngành tài chính - ngân
hàng. Ví dụ các chứng chỉ tiền gửi hay còn gọi là thẻ tiết kiệm do ngân hàng phát
hành cho người gửi tiền chỉ cần có chữ ký và đóng dấu của đại diện ngân hàng.
Bên gửi tiền không ký vào các chứng chỉ đó, thay vào đó họ ký vào giấy yêu cầu
gửi tiền, và 2 thứ giấy tờ này kết hợp với nhau cấu thành nên một “hợp đồng gửi
tiền” hay “hợp đồng cho ngân hàng vay tiền”. Tương tự như thế, trái phiếu hay
công trái cũng là một loại “hợp đồng” mà trên đó chỉ có chữ ký của bên phát
hành. Và những loại hợp đồng” này thường được gọi là các “sản phẩm tài chính” –
vì thế, trong lĩnh vực bảo hiểm người ta cũng thường dùng cụm từ “sản phẩm bảo
hiểm” để chỉ các loại hình bảo hiểm khác nhau.
Thực tiễn xét xử các tranh
chấp về bảo hiểm cho thấy hiện nay nhiều tòa án thụ lý ở các cấp cũng đã quen với
tập quán này nhưng không phải là không có một số tòa án địa phương vẫn có quan
niệm máy móc rằng đã là “hợp đồng” thì phải có chữ ký của cả 2 bên trên cùng một
văn bản. Vì vậy, TAND cấp cao nên có hướng dẫn thống nhất theo hướng công nhận
tập quán về văn bản hợp đồng này trong lĩnh vực bảo hiểm nói chung và bảo hiểm
phi nhân thọ nói riêng.
c) Các quy định về loại trừ trách nhiệm bảo
hiểm có nhất thiết phải được ghi trên GCNBH không?
Đây là vấn đề mà đại biểu của
một DNBH đã nêu ra bên lề buổi hội thảo này và đại biểu đó phàn nàn về việc DN
của mình bị tòa xử “thua” trong một vụ tranh chấp chỉ vì một cách trình bày
trên GCNBH về các quy định loại trừ trách nhiệm bảo hiểm không thuyết phục được
tòa khiến tòa không xem xét đến các quy định này.
Buổi hội thảo này không phải
nơi để “kháng nghị” hay bàn sâu về các chi tiết của các vụ tranh chấp cụ thể. Còn
để biết tòa xử như thế có hợp lý không thì theo tôi cần phải biết thêm một số thông
tin nữa, ví dụ như ngoài GCNBH thì DNBH đó có cấp kèm theo cả Quy tắc bảo hiểm
(policy wording) hay các điều khoản bổ sung, nếu có, hay không.
Giả sử nếu trên GCNBH không
ghi (hoặc ghi không đầy đủ) các quy định về loại trừ trách nhiệm bảo hiểm (hoặc
các quy định khác về phạm vi bảo hiểm) thì như phân tích ở đoạn trên, GCNBH ấy
chưa phải là một HĐBH như quy định ở Điều 13 của Luật KDBH mà chỉ là một “bằng
chứng của giao kết hợp đồng” như quy định ở Điều 14 của Luật KDBH. Khi ấy DNBH
phải ghi thêm trên GCNBH ở mục phạm vi bảo hiểm là “tham chiếu Quy tắc bảo hiểm
đính kèm” và đính kèm bộ Quy tắc ấy với GCNBH thì mới hoàn tất một bộ văn bản của
HĐBH.
Đối với các sản phẩm bảo hiểm
tự nguyện, nếu DNBH đã hoàn tất bộ hợp đồng như trên với bộ Quy tắc bảo hiểm
đính kèm có ghi đầy đủ các quy định loại trừ trách nhiệm bảo hiểm mà tòa vẫn
không xem xét các quy định loại trừ này mà vẫn xử DNBH “thua” thì mới có cơ sở
để kháng nghị lên các cấp xét xử cao hơn. Còn nếu DNBH chỉ cấp GCNBH với nội
dung không đầy đủ như nêu trên mà không cấp kèm theo Quy tắc bảo hiểm thì việc
tòa án xử “thua” cho DNBH là có thể hiểu được.
Còn nếu đó là loại hình bảo
hiểm bắt buộc thì như phân tích ở đoạn trên, DNBH không nhất thiết phải cung cấp
thêm Quy tắc bảo hiểm (trong đó có các quy định loại trừ trách nhiệm bảo hiểm) vì
đó là nghĩa vụ phải biết của bên mua bảo hiểm hay NĐBH, và nếu DNBH vẫn bị xử
thua vì không cấp kèm theo Quy tắc đã được luật quy định này thì DNBH có lý do
để kháng nghị lên cấp xét xử cao hơn.
Nếu TAND cấp cao thấy quan
điểm này là hợp lý thì nên có hướng dẫn chung để thống nhất xét xử trong toàn
ngành.
2) “Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm”
nên được quy định như thế nào cho rõ
Một số đại biểu cho rằng để
thuận tiện cho công tác xét xử của tòa án thì hội đồng thẩm phán nên có một hướng
dẫn cụ thể về các quy định loại trừ trách nhiệm bảo hiểm. Riêng tôi thấy điều
này không khả thi vì ngoài những quy định loại trừ trách nhiệm mà bất cứ HĐBH
tài sản nào cũng áp dụng như loại trừ đối với các rủi ro chiến tranh, hạt nhân,
sự cố liên quan đến chính trị, hành vi cố ý của NĐBH và bên mua bảo hiểm… thì mỗi
loại HĐBH tài sản lại có các quy định loại trừ trách nhiệm bảo hiểm khác nhau.
Hiện nay trên thị trường có hàng chục loại hình bảo hiểm tài sản đặc thù khác
nhau và việc quy định cụ thể các điều kiện, điều khoản của từng loại đó là việc
của các DNBH chứ không phải là việc của các cơ quan xét xử.
Về vấn đề này, theo tôi Điều
18 Luật KDBH hiện hành quy định “Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm phải
được quy định rõ trong HĐBH” là vừa cô đọng vừa đầy đủ.
3) Chuyển nhượng bảo hiểm
Có ý kiến nêu ra trong Hội
nghị về việc Bộ Luật dân sự mới nhất không có quy định gì về vấn đề chuyển nhượng
bảo hiểm nên cần phải có “án lệ” đối với các tranh chấp về HĐBH có liên quan đến
vấn đề này. Nhưng thực ra, vấn đề chuyển nhượng quyền lợi này đã được quy định
khá rõ trong Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành.
Khoản 1, Điều 26 Luật KDBH quy
định “bên mua bảo hiểm có thể chuyển nhượng
HĐBH theo thỏa thuận…” và Khoản 2 cũng Điều trên quy định điều kiện của việc
chuyển nhượng đó là “Việc chuyển nhượng
HĐBH chỉ có hiệu lực trong trường hợp bên mua bảo hiểm thông báo bằng văn bản
cho DNBH về việc chuyển nhượng và DNBH có văn bản chấp thuận việc chuyển nhượng
đó, trừ trường hợp việc chuyển nhượng được thực hiện theo tập quán quốc tế”
“Tập quán quốc tế” được đề cập
trong câu trên cần phải được hiểu là chỉ liên quan đến các dịch vụ bảo hiểm cho
các hoạt động thương mại quốc tế, ví dụ như đối với loại hình bảo hiểm vận chuyển
hàng hóa trên biển thì việc chuyển nhượng bảo hiểm, cụ thể hơn là chuyển nhượng
quyền lợi có thể bảo hiểm từ bên bán sang bên mua được thực hiện theo các điều
kiện giao hàng quốc tế (Incoterm) mà không cần phải có văn bản thông báo cho
DNBH. Trong mọi trường hợp khác, ví dụ như đối với việc bảo hiểm cho các tài sản
ở trên bờ, thì việc chuyển nhượng HĐBH phải được thông báo cho DNBH và phải được
DNBH đồng ý thì việc chuyển nhượng ấy mới có hiệu lực.
Lý do dẫn đến sự khác nhau
đó là đối với bảo hiểm vận chuyển hàng hóa trên biển, việc chuyển nhượng bảo hiểm
không làm thay đổi bản chất của rủi ro nên luật không bắt buộc người mua bảo hiểm
phải thông báo cho DNBH, còn đối với các tài sản ở trên bờ thì nguy cơ rủi ro
có thể tăng hay giảm tùy thuộc vào người chủ sự sở hữu và trình độ cũng như kỹ
năng quản lý đối với tài sản đó, và việc chuyển nhượng HĐBH cũng gắn liền với sự
thay đổi về chủ sở hữu hay người quản lý tài sản đó. Vì vậy, luật bắt buộc bên
mua bảo hiểm phải thông báo việc chuyển nhượng đó cho DNBH và cho phép DNBH có
quyền quyết định có tiếp tục bảo hiểm tài sản trong trường hợp được chuyển nhượng
ấy hay không (hoặc nếu tiếp tục bảo hiểm thì với mức phí bảo hiểm khác).
4) Xác định giá trị bảo hiểm của tài sản tại
thời điểm nào?
Một trong những câu hỏi được
nhiều đại biểu nêu ra là việc xác định giá trị của tài sản được bảo hiểm nên thực
hiện ở thời điểm nào. Trong thực tiễn áp dụng ở thị trường bảo hiểm Việt Nam
cũng như trên thế giới, trừ bảo hiểm đối với các đối tượng liên quan đến hàng hải
như hàng hóa XNK hay tàu biển có thể được bảo hiểm theo một số tiền thỏa thuận
từ trước, đối với các loại hình bảo hiểm tài sản ở trên bờ (như bảo hiểm hỏa hoạn,
bảo hiểm máy móc thiết bị…) thì số tiền bảo hiểm là do bên mua bảo hiểm quyết định
và đến khi xảy ra thiệt hại, DNBH có quyền thẩm tra lại để xác định xem số tiền
bảo hiểm ấy có phản ánh đúng giá trị thực tế của tài sản không để làm căn cứ bồi
thường thiệt hại.
Phải thừa nhận một thực tế
là việc xác định lại số tiền bảo hiểm tại thời điểm thiệt hại như vậy dẫn đến
việc tòa án phải mất công xem xét, đối chứng thêm, thậm chí có lúc tòa phải
trưng cầu việc thẩm tra giám định lại giá trị tài sản trong trường hợp xảy ra
tranh chấp giữa DNBH và bên mua bảo hiểm, điều này dẫn đến việc trong một số
trường hợp, tòa án ở một vài địa phương đưa ra phán quyết DNBH phải bồi thường
đúng theo số tiền bảo hiểm mà bên mua bảo hiểm kê khai cho dù số tiền này có thể
lớn hơn nhiều so với giá trị thực tế của tài sản được bảo hiểm bất chấp việc
phán quyết như vậy là không phù hợp với quy định của Luật KDBH.
Có lẽ vì thế mà đã có ý kiến
từ một số đại biểu đến từ TAND Tối cao đặt vấn đề tại sao DNBH không tiến hành thẩm
tra ngay từ đầu về giá trị tài sản để thỏa thuận trước với bên mua bảo hiểm một
số tiền bảo hiểm phù hợp nhằm thuận tiện cho việc giải quyết bồi thường sau này
cũng như thuận tiện cho… công việc xét xử của tòa án khi có tranh chấp xảy ra.
Tuy nhiên, xét về thực tiễn cũng
như yêu cầu về pháp lý thì việc các bên tham gia HĐBH xác định trước giá trị bảo
hiểm đối với tài sản được bảo hiểm tại thời điểm mua bảo hiểm là không phù hợp
và không thuận tiện cho cả bên mua bảo hiểm và DNBH.
Trong thực tế, chưa nói đến
biến động của lạm phát có thể xảy ra thì giá trị của tài sản máy móc, trang thiết
bị, nguyên vật liệu, thành phẩm, hàng tồn kho… của một cơ sở sản xuất hay kinh
doanh luôn luôn biến động trong suốt thời hạn bảo hiểm, vì vậy nếu ấn định trước
số tiền bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm sẽ không có cơ hội điều chỉnh lại số tiền
bảo hiểm để phù hợp với những sự biến động đó như Luật KDBH cho phép để được
hoàn phí (nếu giá trị tài sản giảm so với khai báo ban đầu) hoặc để được bồi
thường đầy đủ (nếu giá trị tài sản tăng lên so với giá trị khai báo ban đầu). Vì
vậy, Luật KDBH cho phép bên mua bảo hiểm có quyền bổ sung hay điều chỉnh số tiền
bảo hiểm trong suốt thời hạn của HĐBH. Đấy chính là cơ sở pháp lý để bên mua bảo
hiểm bảo đảm được quyền lợi cũng như thực thi được trách nhiệm trung thực trong
khi khai báo thông tin của họ.
Còn đối với DNBH thì việc chỉ
thẩm tra lại giá trị tài sản được bảo hiểm khi có tổn thất xảy ra sẽ tiết kiệm
thời gian và chi phí cho họ trong công việc soạn thảo hợp đồng bảo hiểm với bên
mua bảo hiểm, từ đó cũng tạo thuận lợi cho bên mua bảo hiểm khi HĐBH được giao
kết nhanh, đảm bảo kịp thời hơn. Xin lưu ý là so với hàng ngàn cơ sở sản xuất
kinh doanh được bảo hiểm thì số cơ sở bị thiệt hại do rủi ro được bảo hiểm ít
hơn nhiều. Vì vậy việc đánh giá lại giá trị bảo hiểm khi xảy ra thiệt hại đối với
một vài cơ sở bị thiệt hại là có tính khả thi hơn rất nhiều so với phải thẩm
tra giá trị tài sản của hàng ngàn cơ sở khác không bị thiệt hại.
Chính vì thế mà trong các
Quy tắc bảo hiểm tài sản hiện hành trên thị trường bảo hiểm Việt Nam (trừ loại
hình bảo hiểm hàng hải) đều thể hiện nguyên tắc trên. Các quy tắc này thực ra
được áp dụng theo các mẫu đơn bảo hiểm quốc tế được các nhà nhận tái bảo hiểm
quốc tế phê chuẩn để nhận tái bảo hiểm tại thị trường Việt Nam.
Tuy nhiên, từ đó cũng phải
thừa nhận có sự bất cập trong Luật KDBH hiện hành được thể hiện ở Điều 42 và Điều
43 khi lấy “giá trị tài sản được bảo hiểm tại thời điểm giao kết hợp đồng” làm
cơ sở để xác định một HĐBH tài sản là “trên giá trị” hay “dưới giá trị”. Quy định
hiện hành tại các Điều này 42 và 43 này một mặt chưa phản ánh một cách chính
xác được thực tiễn và quy định của tập quán bảo hiểm quốc tế như phân tích ở
trên, mặt khác cũng không nhất quán so với chính các điều khác trong Luật KDBH
như Điều 18 quy định bên mua bảo hiểm phải “thông báo những trường hợp làm tăng
rủi ro hoặc làm phát sinh thêm trách nhiệm của DNBH trong quá trình thực hiện hợp
đồng bảo hiểm…”, và cũng không nhất quán với Điều 20 cho phép tính lại phí bảo
hiểm nếu có sự thay đổi mức độ rủi ro được bảo hiểm (giá trị bảo hiểm biến động
cần phải được xem là một trong những yếu tố làm “thay đổi mức độ rủi ro” trong
ngữ cảnh này).
Vì vậy, để phù hợp với thực
tiễn cũng như khắc phục bất cập này của Luật KDBH hiện hành, theo tôi trong lần
soạn thảo Luật KDBH mới tới đây, các Điều 42 và 43 cần phải được sửa lại theo
hướng lấy giá trị tài sản được bảo hiểm tại thời điểm xảy ra thiệt hại, chứ
không phải giá trị của nó tại thời điểm giao kết hợp đồng, làm cơ sở để xác định
một HĐBH tài sản là “trên giá trị” hay “dưới giá trị”.
5) Công ty giám định thiệt hại có được quyền
đưa ra ý kiến về phạm vi trách nhiệm bảo hiểm không?
Đây là vấn đề cũng được nhiều
đại biểu ngoài ngành bảo hiểm nêu ra và cho rằng các công ty hay tổ chức giám định
về thiệt hại không có quyền đưa ra ý kiến về phạm vi trách nhiệm bảo hiểm của
DNBH.
Để trả lời câu hỏi này thì cần
phải phân biệt ra 2 trường hợp sau đây
a) Trường hợp 1 – Công ty giám định do DNBH
thuê hoặc do bên mua bảo hiểm thuê
Luật KDBH cũng như các quy định
khác của pháp luật không cấm các công ty giám định đưa ra quan điểm của họ về
phạm vi trách nhiệm bảo hiểm đối với thiệt hại mà họ giám định trong trường hợp
bên thuê họ yêu cầu họ nêu ý kiến về điều đó. Đó là thỏa thuận riêng giữa công
ty giám định và bên thuê nó. Nhưng nếu công ty giám định ấy do bên nào thuê thì
những ý kiến hay quan điểm của nó, kể cả ý kiến về phạm vi trách nhiệm bảo hiểm
chỉ có giá trị tham khảo đối với bên thuê nó chứ không có giá trị bắt buộc đối
với bên còn lại, với tòa án thì lại càng không.
Một số người, kể cả trong
ngành bảo bảo hiểm gọi các công ty giám định này là “công ty giám định độc lập”
là cách gọi dễ gây hiểu lầm khi các công ty giám định đó chỉ đóng vai trò là đại
diện cho tiếng nói của bên thuê họ chứ không phải là cơ quan có thẩm quyền về
trọng tài. Vì vậy khi xét xử thì tòa án hay cơ quan trọng tài có thẩm quyền có
quyền bác bỏ bất kỳ ý kiến hay kết luận nào nêu trong biên bản giám định của
các công ty giám định đó nếu thấy những ý kiến hay kết luận đó là không có cơ sở
nhưng không thể bác bỏ quyền nêu ra ý kiến hay quan điểm của họ nếu DNBH đã đồng
ý ủy quyền cho họ nêu ra những ý kiến hay quan điểm đó nhân danh mình.
b) Trường hợp 2 – Công ty giám định do cả cả
DNBH và bên mua bảo hiểm thuê
Trong trường hợp này, kết luận
giám định, kể cả kết luận về phạm vi trách nhiệm bảo hiểm có thể có giá trị
ràng buộc cả DNBH và NĐBH nếu trong thỏa thuận thuê giám định cả hai bên đã đồng
ý như vậy, và lúc ấy thì công ty giám định mới có thể được coi là “công ty giám
định độc lập”.
6) Bên mua bảo hiểm thanh toán phí bảo hiểm
sau khi xảy ra sự cố thiệt hại
Về vấn đề này, các đại biểu
tham dự hội nghị hầu hết đều chia sẻ quan điểm chung rằng nếu sự cố thiệt hại xảy
ra mà bên mua bảo hiểm chưa thanh toán phí bảo hiểm nhưng thời hạn thanh toán
phí bảo hiểm mà hai bên thỏa thuận vẫn còn hiệu lực thì bên mua bảo hiểm vẫn có
thể thanh toán phí bảo hiểm trong thời hạn đó để được hưởng quyền đòi bồi thường
đối với thiệt hại đó, còn khi đã hết thời hạn thanh toán phí bảo hiểm mà có thiệt
hại xảy ra thì họ sẽ mất quyền đòi bồi thường nếu thiệt hại đó xảy ra mà họ vẫn
chưa thanh toán phí bảo hiểm.
Có đại biểu nêu một thực tế
đã phát sinh là ngay sau khi xảy ra sự cố bảo hiểm khi thời hạn thanh toán phí
bảo hiểm đã hết, bên mua bảo hiểm lập tức thanh toán phí bảo hiểm bằng chuyển
khoản qua ngân hàng cho DNBH và một số tòa án địa phương vẫn xử DNBH phải chịu
trách nhiệm bồi thường với lý do DNBH đã nhận được tiền phí bảo hiểm qua ngân
hàng mà chưa hoàn trả lại cho bên mua bảo hiểm.
Chưa nói đến việc xét xử như
vậy là đúng hay sai trong một sự vụ cụ thể (vì có thể còn có những yếu tố khác
mà người viết bài này chưa rõ). Nhưng nếu chỉ vì lý do đó mà xử như vậy thì theo
tôi nó có nguy cơ trở thành một án lệ thiếu công bằng và nguy hiểm cho ngành bảo
hiểm vì sẽ khuyến khích những người có ý đồ trục lợi chỉ “mua bảo hiểm” khi có
thiệt hại xảy ra (nếu công nhận quyền này của bên mua bảo hiểm thì cũng không
khác gì chấp nhận để người chơi xổ số giữ lấy các vé số chưa quay số xem có
trùng với giải đặc biệt rồi mới trả tiền để mua sau). Và nếu nhiều người được
khuyến khích làm như vậy thì nguyên tắc tối thượng của hoạt động bảo hiểm là sự
“thành ý tối đa” (utmost good faith) giữa các bên đã bị vi phạm. Và sự vi phạm
đó không chỉ làm DNBH có nguy cơ phá sản mà còn làm phương hại đến quyền lợi của
các khách hàng trung thực khác nếu an toàn tài chính của DNBH vì nó mà bị suy yếu.
Thực ra trong hầu hết các
quy tắc bảo hiểm (policy wording) áp dụng hiện nay trên thị trường bảo hiểm Việt
Nam phù hợp với các điều kiện chuẩn của các nhà nhận tái bảo hiểm trên thế giới
thường có quy định rất rõ là trừ khi có thỏa thuận cụ thể về thời hạn thanh
toán phí bảo hiểm thì DNBH chỉ có trách nhiệm bảo hiểm đối với những thiệt hại
nào xảy ra sau khi bên mua bảo hiểm đã thanh toán phí bảo hiểm. Nhưng có lẽ việc
thể hiện bằng tiếng Việt về quy định này không phải lúc nào cũng rõ ràng nên đôi
khi đã dẫn đến cách hiểu không chính xác ở phía cơ quan xét xử rằng nếu khách
hàng thanh toán phí bảo hiểm và DNBH đã nhận được phí bảo hiểm thì DNBH phải có
nghĩa vụ bồi thường thiệt hại bất kể việc thanh toán phí bảo hiểm ấy được thực
hiện trước hay sau khi xảy ra thiệt hại đó.
Nếu căn cứ theo đúng nguyên
lý bảo hiểm thì sau khi thiệt hại xảy ra mà bên mua bảo hiểm mới thanh toán phí
bảo hiểm qua ngân hàng mà DNBH chưa kịp trả lại khoản thanh toán đó thì DNBH
cũng không bị ràng buộc bởi khoản thanh toán đó đối với thiệt hại đã xảy ra.
Trong trường hợp đó, tùy theo thỏa thuận với bên mua bảo hiểm, DNBH sau đó có
thể trả lại khoản tiền đó cho bên mua bảo hiểm để chấm dứt trách nhiệm của mình
đối với HĐBH đó hoặc cũng có thể giữ lại khoản tiền đó để chịu trách nhiệm bồi
thường cho những thiệt hại khác có thể xảy ra sau đó, chứ không phải để chịu
trách nhiệm cho thiệt hại đã xảy ra trước đó.
Tuy nhiên, Luật KDBH hiện
nay khi đề cập đến vấn đề này vẫn khá chung chung và chưa thể hiện rõ nguyên lý
có tính chất “common sense” này của hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Vì thế,
chúng tôi đề nghị khi ban hành Luật KDBH mới trong thời gian tới thì vấn đề này
sẽ được làm rõ hơn.
Nhưng trong khi chờ Luật
KDBH mới được ban hành và có hiệu lực, rất cần có một hướng dẫn chung của Ủy
ban Thẩm phán TANDTC để việc xét xử đảm bảo nguyên tắc công bằng nói trên
***
Trên đây là một số ý kiến dưới góc độ cá nhân của người viết về một số vấn đề chính được nêu ra trong cuộc hội thảo nói trên. Những ý kiến này bao gồm cả các ý kiến đã phát biểu và chưa có điều kiện phát biểu trực tiếp tại hội nghị nhưng xin được nêu chung trong bài viết này cho có hệ thống. Người viết rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các bạn đồng nghiệp trong ngành bảo hiểm và hy vọng những ý kiến của mình sẽ được hội đồng thẩm phán TANDTC cân nhắc một cách hợp lý khi ban hành các nghị quyết hay văn bản hướng dẫn công tác xét xử đối với các vụ tranh chấp liên quan đến HĐBH./.
Tác giả: Hà Vũ Hiển - Cố vấn cấp cao, Trợ lý Ban TGĐ – Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt